image banner
Một số giải pháp nâng cao chất lượng tự học và tự nghiên cứu của sinh viên hiện nay
Lượt xem: 62
Trong bối cảnh giáo dục hiện đại, tự học và tự nghiên cứu đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển tri thức và kỹ năng của sinh viên. Tự nghiên cứu không chỉ quyết định đến kết quả, chất lượng học tập mà còn ảnh hưởng đến bản lĩnh, ý chí, nghị lực, phong cách của người học sau này, đến khả năng thích ứng, khả năng tự điều khiển bản thân và điều khiển cả một tập thể…

Trong bối cảnh giáo dục hiện đại, tự học và tự nghiên cứu đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển tri thức và kỹ năng của sinh viên. Tự nghiên cứu không chỉ quyết định đến kết quả, chất lượng học tập mà còn ảnh hưởng đến bản lĩnh, ý chí, nghị lực, phong cách của người học sau này, đến khả năng thích ứng, khả năng tự điều khiển bản thân và điều khiển cả một tập thể… Tuy nhiên, nhiều sinh viên vẫn gặp khó khăn trong việc nâng cao chất lượng tự học, dẫn đến hiệu quả học tập chưa như mong đợi. Hướng dẫn sinh viên biết cách tự học là một trong những nội dung quan trọng của môn “Phương pháp học đại học”. Trong bài viết này, tác giả đề cập tới thực trạng của việc tự học ở sinh viên hiện nay, một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tự học cho sinh viên. Từ đó, giúp sinh viên có phương pháp tự học phù hợp và hiệu quả.

1. Đặt vấn đề

Tự học là vấn đề quan trọng và cần thiết đối với sinh viên hiện nay. Một số sinh viên chưa có phương pháp học tập hợp lý, trong khi yêu cầu về tính chủ động trong học tập là rất cao. Để nắm bắt toàn diện những kiến thức chuyên môn ở bậc đại học đòi hỏi sinh viên phải có nhiều nỗ lực trong hoạt động học tập, đặc biệt phải dành nhiều thời gian cho việc tự học và tự nghiên cứu, cần có một phương pháp học tập đúng đắn, phù hợp và hiệu quả. Mô hình đào tạo theo hệ thống tín chỉ là một mô hình mới, trong khi các phương tiện và thiết bị hỗ trợ học tập còn hạn chế. Trong nhà trường, bản chất của sự học là tự học, cốt lõi của dạy học là dạy việc học, kết quả của người học tỷ lệ thuận với năng lực tự học của người học.

Ngoài việc nâng cao kết quả học tập, tự học còn tạo điều kiện hình thành và rèn luyện khả năng hoạt động độc lập, sáng tạo của mỗi cá nhân, trên cơ sở đó, tạo điều kiện và cơ hội học tập suốt đời. Mục tiêu quan trọng nhất của nhà trường không phải trang bị cho người học tri thức mà là phương pháp tự học. Thực tế hiện nay, hoạt động tự học của sinh viên các trường đại học vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều sinh viên chưa dành nhiều thời gian cho việc tự học, tự nghiên cứu, chưa xây dựng và rèn luyện kỹ năng tự học cho bản thân… Chính vì vậy, việc nghiên cứu phương pháp tự học của sinh viên và giải pháp năng cao kỹ năng tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên là góp phần nâng cao kết quả học tập và chất lượng đào tạo.

2. Thực trạng tự học, tự nghiên cứu của sinh viên hiện nay

Kỹ năng tự học là một trong những kỹ năng sống, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và chất lượng của sinh viên trong quá trình học tập tại trường. Môi trường cao đẳng, đại học hình thức học chủ yếu của sinh viên là tự học, tự nghiên cứu. Đặc biệt khi các trường đại học, cao đẳng thực hiện phương thức đào tạo tín chỉ, hoạt động tự học lại càng quan trọng và cần thiết đối với sinh viên. Để có được kết quả tốt trong quá trình học tập, sinh viên phải biết cách tự học, rèn luyện được kỹ năng tự học. Trong suốt những năm vừa qua, việc tự học tự nghiên cứu trong học tập của sinh viên đã được cải thiện rất nhiều, nhất là sau khi chuyển sang học theo tín chỉ.

Thực chất hoạt động tự nghiên cứu là quá trình sử dụng các thao tác tư duy, để tiến hành hoạt động nhận thức một cách độc lập, chủ động của chủ thể nhằm nắm bắt bản chất tri thức khoa học, thoả mãn nhu cầu nhận thức, định hướng cho hoạt động cải tạo thực tiễn. Đặc điểm nổi bật nhất của tự nghiên cứu là người học phải vận dụng các thao tác tư duy một cách độc lập, tích cực, chủ động để tiến hành hoạt động nhận thức. Đó là quá trình vận dụng hết khả năng, sức lực của mình và tận dụng mọi thời gian, điều kiện có thể, để tự tìm tòi, nghiên cứu nâng cao trình độ nhận thức về lĩnh vực học tập; chuyển hóa những tri thức, kỹ năng nghề nghiệp theo yêu cầu của xã hội thành vốn hiểu biết của mình, làm cơ sở vận dụng vào quá trình hoạt động thực tiễn trên lĩnh vực nghề nghiệp sau khi ra trường. Thiếu tính độc lập, tích cực, chủ động hoặc thiếu khả năng sử dụng các thao tác tư duy, thì người học không thể tiến hành hoạt động tự nghiên cứu được; nếu có tiến hành thỡ chất lượng, hiệu quả của hoạt động tự nghiên cứu đó cũng không cao.

Với đòi hỏi và yêu cầu ngày càng cao của quy trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, mỗi sinh viên phải giải quyết đồng thời nhiều mâu thuẫn; thời gian học tập hạn hẹp với lượng kiến thức phải tiếp thu, với nhiệm vụ học tập, rèn luyện và hoạt động phục vụ xã hội khác. Chính vì thế, mỗi sinh viên  phải nỗ lực, tự giác, biến quá trình học tập thành quá trình tự học tập. Kết quả học tập, rèn luyện cao hay thấp phụ thuộc chủ yếu vào tính tự giác học tập, rèn luyện của sinh viên. Nếu mỗi sinh viên nâng cao ý thức tự nghiên cứu, tự rèn sẽ giúp họ vượt qua khó khăn, nâng cao chất lượng đào tạo cho bản thân người học.

Một trong những kết quả rõ nét nhất là khả năng tư duy độc lập và giải quyết vấn đề của sinh viên được nâng cao. Khi tự học, sinh viên phải tự xác định mục tiêu, lập kế hoạch và tìm kiếm tài liệu phù hợp. Quá trình đó đòi hỏi sự kiên trì, tư duy phản biện và tinh thần cầu tiến. Điều này giúp sinh viên không chỉ nắm vững kiến thức chuyên môn mà còn biết cách áp dụng chúng vào thực tiễn, từ đó hình thành năng lực sáng tạo và đổi mới trong học tập cũng như công việc sau này. Ngoài ra, tự học và tự nghiên cứu giúp sinh viên phát triển kỹ năng quản lý thời gian, tự điều chỉnh hành vi học tập và tăng tính tự chủ. Trong môi trường đại học, sinh viên không còn bị giám sát chặt chẽ như thời phổ thông. Do đó, những ai có khả năng tự học tốt thường đạt được kết quả học tập cao, đồng thời, phát triển bản thân một cách toàn diện. Họ có thể hoàn thành các đề tài nghiên cứu khoa học, tham gia cuộc thi học thuật hoặc thậm chí tự mình triển khai các dự án cá nhân. Tự học không chỉ là con đường ngắn nhất dẫn đến thành công trong học tập mà còn là hành trang cần thiết để sinh viên thích nghi và phát triển bền vững trong xã hội tri thức ngày nay.

Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại, hạn chế trong việc tự học, tự nghiên cứu của sinh nhà trường.

Một là, phần lớn sinh viên chưa có kế hoạch tự học khoa học, lúng túng trong việc xác định phương pháp tự học phù hợp cho mình và cho từng môn học cụ thể, nhất là đối với sinh viên năm nhất vì các em vẫn quen với cách học tập của bậc trung học phổ thông. Hiện nay,  trên giảng đường đại học, các phương pháp học tập mới đang được áp dụng. Các tiết học trên lớp thường được kết hợp với thuyết trình đàm thoại tự trao đổi làm việc nhóm. Các phương pháp này đã giúp sinh viên năm nhất dần dần làm quen với môi trường học tập mới, cách giải quyết lượng kiến thức vừa ồ ạt, vừa khó hiểu, từ đó tránh được trạng thái áp lực, chán nản, khơi gợi hứng thú môn học. Tuy nhiên, một số sinh viên năm nhất mới lên môi trường đại học, cảm thấy khó khăn trong thích nghi với phương pháp học tập mới, vẫn áp dụng phương pháp học tập từ các cấp học dưới. Thậm chí nhiều bạn không có ý định thay đổi cách học, sợ sệt sự đổi mới dẫn đến kết quả học tập không hiệu quả, không áp dụng được kiến thức vào thực tế.

Hai là, sinh viên chưa có thói quen đọc tài liệu và nghiên cứu mà chủ yếu dựa vào những bài giảng và tài liệu do giảng viên cung cấp, chưa biết cách tổng hợp kiến thức thu thập được qua việc nghiên cứu tài liệu. Sinh viên đại học có nhu cầu về sự hiểu biết tìm tòi cái mới, sự khát vọng vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao tri thức khoa học. Tuy nhiên, về mặt nhận thức những hạn chế chung nhất của họ vẫn là khả năng tư duy trừu tượng, sự sáng tạo còn mức độ. Trong học tập, nghiên cứu khoa học có sinh viên còn chưa tích cực, chủ động; chưa có sự khái quát chưa cao, liên hệ giữa lý luận và thực tiễn chưa thuần thục, ứng dụng bài học lý thuyết vào thực hành, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp thường cứng nhắc, dập khuôn. Những hạn chế này được biểu hiện rõ nhất ở những bài tiểu luận, thu hoạch trong những môn học đầu của khóa học. Vào năm cuối, khi bước vào làm khóa luận đa số học viên khi đã được tích lũy đủ những hệ thống kiến thức cơ bản, cơ sở chuyên ngành, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học, thì những hạn chế này dần được khắc phục.

Ba là, nguồn tài liệu tham khảo cho môn học còn hạn chế, sinh viên chủ yếu dựa vào tài liệu do giảng viên cung cấp hoặc tham khảo tài liệu trên Internet, không có nhiều tài liệu chính thống để cho sinh viên tham khảo khi nghiên cứu. Hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo bảo đảm cho hoạt động học tập nói chung và tự nghiên cứu nói riêng cũng ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng học tập của sinh viên, trong đó có tự nghiên cứu. Cơ sở vật chất, hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo chính là phương tiện, công cụ để người học tiến nhanh đến mục đích, mục tiêu đặt ra. Nếu bảo đảm đầy đủ những cơ sơ vật chất, hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo cho hoạt động tự nghiên cứu thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người học viên có thể phát huy tối đa khả năng của mình và tạo sự hứng thú hơn cho họ trong quá trình tự nghiên cứu. Ngược lại, hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo thiếu thốn thì sẽ gây khó khăn cho người học trong việc lĩnh hội kiến thức và tốn nhiều thời gian trong phương pháp lĩnh hội, nghiên cứu và dẫn tới kết quả đạt được thấp.

3. Giải pháp nâng cao kỹ năng tự học, tự nghiên cứu trong sinh viên

Thứ nhất, đối với giảng viên

Để việc dạy và học trong nhà trường đạt hiệu quả đội ngũ giảng viên trong các trường đại học cần phải:

(1) Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Trong giảng dạy, giảng viên nên chú trọng sử dụng nhiều phương pháp, biện pháp dạy học tích cực, như: dạy học nêu và giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, hoạt động nhóm, dạy học dự án, phương pháp vấn đáp, phương pháp đóng vai… Phương pháp dạy học này phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng tạo của sinh viên, hướng tới phát triển tối đa tự chủ của sinh viên trong học tập, phát triển năng lực độc lập làm việc và tự nghiên cứu trên cơ sở kế hoạch học tập mà sinh viên đã định ra. Tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực thì giảng viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp truyền thống thụ động. Với vai trò người tổ chức, thiết kế, hướng dẫn sinh viên trong hoạt động học tập, giảng viên phải thường xuyên tìm hiểu, nghiên cứu, sử dụng các phương pháp dạy học hiện đại kết hợp với phương pháp dạy học truyền thống một cách có nghệ thuật, phù hợp. Hướng tới việc đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập, sinh viên sẽ tích cực tham gia đóng góp xây dựng bài, phát biểu ý kiến hoặc tham gia tranh luận trong nhóm, liên hệ những kiến thức được học với thực tế, hoặc tìm cách áp dụng vào thực tế, nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu trong bản thân mỗi sinh viên.

(2) Sử dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực, phát huy tính tự học tự nghiên cứu của sinh viên trong các giờ giảng. Thực tế giảng dạy cho thấy, đối với các môn học thiên về lý thuyết, như: chính trị, soạn thảo văn bản, tiếng Anh…, để giờ giảng đạt được hiệu quả và góp phần nâng cao năng lực tự học của sinh viên, phải sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp, như: thuyết trình, nêu vấn đề, gợi mở, tạo tình huống, người học cùng tham gia,… Tuy nhiên, thuyết trình vẫn là phương pháp chủ đạo, nhưng phải là thuyết trình có đổi mới, cách tân theo hướng kích thích tính tích cực, sáng tạo của người học, buộc người học phải luôn động não, nghĩa là trong thuyết trình có nêu vấn đề, phát vấn, tạo tình huống… để người học suy nghĩ, tự lý giải, tự liên hệ, vận dụng vào thực tiễn, qua đó tạo hiệu ứng tốt cho lớp học và năng lực tự học của sinh viên.

(3) Tăng cường tổ chức cho sinh viên thảo luận, thuyết trình nhóm. Đây là một hình thức dạy và học tích cực thông qua trao đổi, chất vấn, đối thoại giữa giảng viên với sinh viên, giữa sinh viên với sinh viên, qua đó giúp sinh viên nắm kiến thức lý thuyết và thực tiễn của môn học tốt hơn. Việc thảo luận và thuyết trình nhóm buộc sinh viên phải đọc và nghiên cứu tài liệu, tăng cường hoạt động nhóm để tìm ra phương án tốt nhất cho bài thuyết trình. Trong thảo luận, thuyết trình, giảng viên cần khuyến khích chất vấn, tranh luận, lôi cuốn sự tham gia đông đảo của sinh viên; có nhận xét, đánh giá tinh thần làm việc, chất lượng bài thảo luận, thuyết trình…; khích lệ, động viên đúng mức, tạo động lực (cộng điểm cho sinh viên chẳng hạn) để gia tăng tinh thần học tập của sinh viên.

(4) Tăng cường việc cho sinh viên viết tiểu luận môn học, làm các bài tập lớn. Thực hiện tăng cường việc cho sinh viên viết tiểu luận môn học, làm các bài tập lớn sẽ giúp sinh viên làm quen với nghiên cứu khoa học, hiểu sâu hơn những vấn đề cơ bản của môn học, bước đầu biết gắn lý luận với thực tiễn, góp phần rèn luyện kỹ năng viết của sinh viên. Để làm tiểu luận và các bài tập lớn, sinh viên phải thu thập và xử lý thông tin, phải đọc, phải viết, nghĩa là phải sử dụng các phương pháp học tập và nghiên cứu khoa học, qua đó góp phần nâng cao năng lực tự học.

Thứ hai, đối với nhà trường (cơ sở đào tạo).

Trong bối cảnh giáo dục hiện đại, nơi mà kiến thức ngày càng mở rộng và thay đổi nhanh chóng, năng lực tự học, tự nghiên cứu đã trở thành kỹ năng thiết yếu đối với sinh viên. Tuy nhiên, để hoạt động tự học đạt hiệu quả cao, không thể thiếu vai trò định hướng, hỗ trợ và tạo điều kiện của nhà trường. Nhà trường không chỉ là nơi truyền đạt kiến thức mà còn là môi trường nuôi dưỡng tinh thần học tập chủ động, sáng tạo và phát triển năng lực cá nhân cho sinh viên.

(1) Đổi mới chương trình đào tạo theo hướng mở và linh hoạt. Trước hết, nhà trường đóng vai trò định hướng chiến lược trong việc xây dựng chương trình đào tạo khuyến khích sinh viên tự học. Các môn học nên được thiết kế theo hướng mở, lồng ghép các hoạt động nghiên cứu, học nhóm, thuyết trình, thực hành và làm dự án. Điều này giúp sinh viên hình thành thói quen chủ động tìm tòi, nghiên cứu tài liệu và giải quyết vấn đề thay vì thụ động tiếp nhận kiến thức từ giảng viên. Các đề cương môn học cũng cần thể hiện rõ mục tiêu tự học, kèm theo tài liệu tham khảo và hướng dẫn cụ thể để sinh viên có thể tự xây dựng lộ trình học tập cho riêng mình.

(2) Ứng dụng công nghệ vào hỗ trợ học tập. Cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ cũng là yếu tố then chốt. Nhà trường cần đầu tư xây dựng thư viện hiện đại, kho học liệu số, các phòng thí nghiệm, không gian học tập mở và các nền tảng học trực tuyến. Việc tiếp cận thông tin dễ dàng và đa dạng sẽ tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên học mọi lúc, mọi nơi.

(3) Tạo dựng môi trường học tập tích cực, khuyến khích tự học. Nhà trường nên xây dựng các không gian học tập thân thiện, như phòng tự học, không gian sáng tạo, thư viện mở 24/7… để sinh viên có thể thoải mái học tập và nghiên cứu. Đồng thời, việc tổ chức các hoạt động học thuật như hội thảo, tọa đàm, câu lạc bộ nghiên cứu khoa học sẽ giúp sinh viên có thêm cơ hội rèn luyện kỹ năng tự học và giao lưu tri thức. Ngoài ra, nhà trường cần tổ chức các hội thảo, câu lạc bộ học thuật, cuộc thi nghiên cứu khoa học… cũng là hình thức hiệu quả để thúc đẩy tinh thần tự học, tự nghiên cứu và kết nối cộng đồng sinh viên có chung đam mê học tập, nghiên cứu.

(4) Đánh giá và ghi nhận quá trình tự học của sinh viên. Hệ thống đánh giá nên được điều chỉnh để phản ánh đúng năng lực tự học, thay vì chỉ dựa vào thi cử. Có thể áp dụng hình thức đánh giá quá trình, đánh giá theo dự án, hoặc chấm điểm theo tiêu chí cụ thể như khả năng tìm kiếm tài liệu, tư duy phản biện, kỹ năng trình bày…

(5) Tư vấn và hỗ trợ học tập cá nhân hóa. Nhà trường nên có bộ phận cố vấn học tập để hỗ trợ sinh viên xây dựng kế hoạch học tập cá nhân, giúp họ xác định mục tiêu, phương pháp học phù hợp và khắc phục những hạn chế trong quá trình tự học. Tóm lại, để nâng cao chất lượng tự học của sinh viên, nhà trường cần có chiến lược rõ ràng, đầu tư cả về con người và cơ sở vật chất, đồng thời, tạo động lực và môi trường học tập tích cực. Khi đó, tự học không còn là nhiệm vụ bắt buộc mà sẽ trở thành thói quen và niềm yêu thích trong hành trình khám phá tri thức của mỗi sinh viên.

Thứ ba, đối với sinh viên.

(1) Xác định đúng mục tiêu, động cơ học tập. Ngay từ đầu môn học, giảng viên phải giúp cho sinh viên nhận thức đúng, rõ ràng về mục đích và nội dung trọng tâm cũng như phương pháp học tập của môn học. Sinh viên ngay từ đầu sẽ phải xác định cho mình mục đích rõ ràng là học để có tri thức, kỹ năng phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp của mình sau này. Từ nhận thức như vậy, người học mới có tinh thần tích cực đối với hoạt động tự học và do đó, mới có ý thức thường xuyên nâng cao năng lực tự học của bản thân.

(2) Xây dựng kế hoạch học tập. Đối với bất kỳ ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm chí từng môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm, từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình. Kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Nếu việc học dàn trải thiếu tập trung thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác định được trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách hợp lý logic về cả nội dung lẫn thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp quá trình tiến hành việc học được trôi chảy thuận lợi.

(3) Phát huy năng lực tiếp nhận, xử lý, tổng hợp thông tin. Trong thời đại hiện nay, với sự bùng nổ thông tin trên toàn cầu diễn ra nhanh chóng, hoạt động học tập của sinh viên không chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà trường mà còn mở rộng ra nhiều môi trường xã hội khác nhau. Vì vậy, thông tin là một trong những yếu tố cơ bản, cần thiết để sinh viên bổ sung và hoàn thiện vốn tri thức nghề nghiệp cho bản thân. Sau khi thu nhận thông tin, sinh viên phải biết cách xử lý, chọn lọc, phân loại thông tin nhằm phục vụ cho chuyên môn, nghiên cứu, rèn luyện nghiệp vụ nghề nghiệp, làm giàu vốn tri thức cho bản thân. Phát huy năng lực tiếp nhận, xử lý, tổng hợp thông tin phục vụ hoạt động học tập trong sinh viên góp phần nâng cao tính tích cực, chủ động học tập và nghiên cứu khoa học cho bản thân sinh viên.

(4) Xây dựng thói quen học tập tích cực, nắm vững kiến thức chuyên môn và phương pháp học tập khoa học trong sinh viên. Việc hình thành thói quen học tập tích cực là rất quan trọng, nó giúp cho quá trình học tập, đặc biệt là tự học diễn ra liên tục và lâu dài. Để có được một thói quen tự học tốt, sinh viên cần: học có chọn lọc, học có đam mê và học có quá trình. Để nắm vững tri thức chuyên môn, sinh viên phải vận dụng sáng tạo các nguyên tắc, quan điểm, phương pháp luận biện chứng duy vật vào nắm bắt hệ thống khái niệm, đồng thời phải có những hiểu biết về các môn khoa học cơ bản, liên ngành, kiến thức về đời sống xã hội. Sinh viên cần nhạy bén, linh hoạt khi lựa chọn phương pháp học tập, tích lũy chuyên môn phù hợp với khả năng của bản thân.

(5) Nâng cao khả năng tự học thông qua khả năng tiếp thu bài giảng. Để có thể tiếp thu bài giảng tốt, sinh viên cần đi học đầy đủ, ghi chép cẩn thận. Trong giờ học cần cố gắng tập trung và tích cực tương tác với giảng viên, luôn đặt câu hỏi khi có thắc mắc. Điều này sẽ giúp sinh viên ghi nhớ lâu hơn góp phần kích thích tư duy, đặc biệt là tư duy sáng tạo. Năng lực tự học vì thế sẽ dần được nâng cao thông qua sự Nâng cao khả năng tự học thông qua khả năng hiểu và giải quyết vấn đề tăng cường làm bài tập, nhất là các bài tập tình huống mà giảng viên đề cập, ghi chép các ví dụ, ghi nhớ đề cương, các từ khóa và tập trung suy nghĩ để luôn chủ động và hiểu đúng bản chất. Bên cạnh đó, sinh viên cần được trang bị và thực hành tốt các phương pháp học tập như: phương pháp tìm tài liệu, đọc tài liệu, nghe giảng, sơ đồ hóa kiến thức, học với giáo trình, học với phương tiện dạy học, học thông qua xêmina, học nhóm, học thông qua nghiên cứu khoa học, học khi đi thực tập, thực tế…

3. Kết luận

Nâng cao chất lượng tự học và tự nghiên cứu là một quá trình đòi hỏi sự chủ động, sáng tạo và kiên trì từ phía sinh viên. Bằng cách áp dụng những giải pháp trên, sinh viên có thể cải thiện hiệu quả học tập, nâng cao năng lực cá nhân và chuẩn bị tốt hơn cho tương lai. Hiện nay, trong các trường đại học, một bộ phận khá lớn sinh viên còn thụ động trong việc tiếp nhận tri thức. Phương pháp học tập, nhất là phương pháp tự học, tự nghiên cứu luôn là bài toán khó cho không ít sinh viên kể cả sinh viên năm cuối. Vì vậy, mỗi trường đại học hiện đại cần đưa phương pháp tự học vào mục tiêu đào tạo. Điều đó không chỉ giúp bản thân sinh viên nắm được vấn đề một cách chắc chắn và bền vững; chủ động bồi dưỡng phương pháp phát triển của tư duy, của khả năng tiếp thu, áp dụng học tập và kỹ năng vận dụng tri thức mà còn rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động độc lập sáng tạo. Đó là những phẩm chất mà chỉ có chính bản thân sinh viên tự rèn luyện kiên trì mới có được, không một ai có thể cung cấp hay làm thay cho mình. Thực tế cũng đã chứng minh, mỗi thành công của sinh viên trên con đường học tập nghiên cứu không bao giờ là kết quả của lối học tập thụ động, đối phó, chờ thời.

Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị lần thứ 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
2. Nguyễn Hiến Lê (2007). Tự học – một nhu cầu của thời đại. H. NXB. Văn hóa – Thông tin.
3. Trần Thị Minh Hằng (2011). Tự học và yếu tố tâm lý cơ bản trong tự học của sinh viên sư phạm. H. NXB Giáo dục.
4. Vũ Trọng Rỹ (1994). Một số vấn đề lý luận về rèn luyện kỹ năng học tập cho học sinh. Viện Khoa học Giáo dục Hà Nội.
5. Hoàng Thúc Lân (2014). Phát triển năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên Việt Nam hiện nay. H. NXB Chính trị Quốc gia.
6. Lê Quang Sơn (2007). Đổi mới phương pháp dạy học trong các trường đại học, cao đẳng. Đại học Đà Nẵng. Lưu hành nội bộ.

 

 

 

Thông tin mới nhất
Không tìm thấy Video trong hệ thống dữ liệu
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập