Chiến thắng Điện Biên Phủ, thắng lợi vĩ đại của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
Cách đây 71 năm (7/5/1954), dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã tiến hành trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi 9 năm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hơn 70 thập kỷ đã trôi qua, song chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn còn vẹn nguyên giá trị, là thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam, bản khải hoàn ca, minh chứng sinh động, hùng hồn cho sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh.
Ảnh tư liệu
Chiến dịch Điện Biên Phủ- mốc son lịch sử chói lọi thế kỷ XX
Tháng 1-1953, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp
Hội nghị lần thứ tư, phân tích một cách sâu sắc, khoa học hình thái chiến sự
trên chiến trường Việt Nam và chiến trường toàn Đông Dương. Trung ương nhận định,
do tình hình phát triển không đồng đều của lực lượng ta trên các chiến trường Bắc
Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ, nên đại bộ phận chủ lực của địch đã dần dần tập trung ở Bắc
Bộ, trong lúc chúng còn nhiều sơ hở trên các chiến trường khác. Ở Bắc Bộ, lực
lượng của chúng tập trung ở đồng bằng, còn ở chiến trường miền núi thì chúng
tương đối yếu hơn, điều kiện địa hình ở đó lại có lợi cho ta, không có lợi cho
địch.
Vào thời điểm các cuộc tiến công Đông - Xuân của
ta chuẩn bị bắt đầu, cục diện chiến sự có một sự biến chuyển mới. Địch phát hiện
sự di chuyển của một bộ phận chủ lực ta lên hướng Tây Bắc. Ngày 20-11-1953,
chúng đã dùng một bộ phận lực lượng cơ động, nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ.
Chúng ta đã kịp thời nhận định tình huống mới: Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ,
mặc dù ta không phán đoán được cụ thể về địa điểm và thời gian, nhưng cũng nằm
trong phạm vi phán đoán trước của ta là nếu Tây Bắc bị uy hiếp thì địch sẽ tăng
viện lên hướng đó. Như vậy là, trước sự uy hiếp của ta, địch đã phải bị động đối
phó, phải phân tán một bộ phận lực lượng cơ động lên Điện Biên Phủ để yểm hộ
cho Tây Bắc, che chở cho Thượng Lào.
Điện Biên Phủ là một thung
lũng lòng chảo rộng lớn ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc. Lực lượng của địch ở
Điện Biên Phủ được bố trí thành tập đoàn cứ điểm bao gồm 3 phân khu yểm hộ lẫn
nhau, tất cả có 49 cứ điểm. Mỗi cứ điểm đều có khả năng phòng ngự; nhiều cứ điểm
được tổ chức lại thành những cụm cứ điểm gọi là “trung tâm đề kháng theo kiểu
phức tạp”, có lực lượng cơ động, hỏa lực mạnh, hệ thống công sự vững chắc, xung
quanh có hào giao thông và hàng rào dây thép gai, có khả năng độc lập phòng ngự
khá mạnh. Mỗi phân khu bao gồm nhiều trung tâm đề kháng kiên cố như vậy. Mỗi
trung tâm đề kháng cũng như toàn bộ tập đoàn cứ điểm đều được bảo vệ bằng hệ thống
công sự nằm chìm dưới mặt đất, bằng một hệ thống công sự phụ (hàng rào hoặc bãi
dây thép gai, bãi mìn) và bằng một hệ thống hỏa lực rất mạnh.
Chúng ta hạ quyết tâm tập trung đại bộ phận chủ lực
tinh nhuệ của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ để tiêu diệt binh lực tinh nhuệ nhất
của địch trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng trên chiến trường Đông
Dương. Quyết tâm rất lớn trên đây quán triệt phương châm tích cực, chủ động, cơ
động, linh hoạt mà Trung ương đã đề ra khi chỉ đạo tác chiến trong chiến cuộc
Đông - Xuân 1953 - 1954. Sau 56 ngày đêm chiến đấu liên tục, quân ta đã tiêu diệt
toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch lịch sử Điện
Biên Phủ đã toàn thắng vào ngày 7-5-1954. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân
1953 - 1954 của quân ta đã kết thúc bằng một chiến thắng vĩ đại.
Trải qua 9 năm trường kỳ kháng chiến đầy hy sinh,
gian khổ, Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định, đập tan ý chí xâm
lược của các thế lực thực dân hiếu chiến, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định
Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, cam kết tôn trọng độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời phải công nhận
độc lập của Lào, Campuchia, rút quân khỏi 3 nước Đông Dương. Một nửa nước ta được
hoàn toàn giải phóng, mở ra thời kỳ cách mạng mới, xây dựng miền Bắc trong hòa
bình, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương lớn, vững chắc cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân khác nhau, trong đó Đảng ta đã đặc biệt coi trọng khơi dậy và phát huy
mạnh mẽ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng đòi hỏi của yêu cầu nhiệm
vụ cách mạng.
Các đoàn dân công xe đạp thồ lên đường phục vụ tiền tuyến năm 1954. Ảnh tư liệu/nhandan.vn
Trên cơ sở làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, với khẩu
hiệu “Tất cả cho mặt trận”, “Tất cả để chiến thắng”, các tầng lớp nhân dân cả ở
vùng tự do cũng như ở nhiều vùng còn bị địch tạm chiếm đã chung sức đồng lòng
tham gia vận chuyển lương thực thực phẩm, phục vụ chiến đấu. Các đoàn dân công
lên đường với tinh thần hăng hái, phấn khởi như đi trẩy hội, được tổ chức chặt
chẽ, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Bằng tinh thần đoàn kết ấy, đồng bào các
dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4 đã đóng góp hơn 260.000 dân
công (tính ra thành 14.000.000 ngày công), 20.091 xe đạp thồ và hàng chục nghìn
phương tiện vận chuyển thô sơ. Đồng bào đã đóng góp cho chiến dịch 25.056 tấn
lương thực, 907 tấn thịt và hàng nghìn tấn thực phẩm khác. Chỉ tính riêng số
vật phẩm đã chuyển được ra mặt trận là hơn 2 vạn tấn, trong đó có 14.950 tấn
gạo, 266 tấn muối, 62,7 tấn đường, 577 tấn thịt và 565 tấn thức ăn khô”. Có thể
nói, từ vùng tự do Việt Bắc, từ Liên khu 3, Liên khu 4, vùng mới giải phóng Tây
Bắc cho đến các vùng du kích, các khu căn cứ ở Đồng bằng Bắc Bộ… mọi tầng lớp
Nhân dân đều đoàn kết dồn sức cho Điện Biên Phủ. Với việc nêu cao tinh thần đại
đoàn kết toàn dân tộc, khó khăn lớn nhất của Chiến dịch là công tác hậu cần đã
được giải quyết có hiệu quả.

Dân công vận chuyển lương thực, thực phẩm ra Mặt trận Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu
Phát huy tinh thần chiến thắng Điện Biên Phủ, trải
qua gần 40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới của đất nước
đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, góp phần làm cho “Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Tuy nhiên, trước những biến động nhanh chóng, khó dự báo của
tình hình thế giới và khu vực, đòi hỏi chúng ta tiếp tục phát huy những bài học
lịch sử quý báu từ chiến thắng Điện Biên Phủ trong điều kiện mới khi cả dân tộc
đang chuyển mình tiến bước vào kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng. Một
trong những nội dung quan trọng, có ý nghĩa then chốt là bài học về phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới.
Trong tình hình mới, Ðảng ta tiếp tục khẳng định:
Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực
và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi
tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những
điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh
thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết
mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa
nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ðộng viên và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn gắn liền với yêu cầu
mở rộng dân chủ và giữ vững kỷ cương phép nước trong đời sống xã hội. Để thực
hiện thành công, thắng lợi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, cần tiếp tục phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí, nghị lực và sức sáng tạo của con người Việt
Nam trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, để phát huy vai trò là
hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thì bản thân Đảng phải là tấm
gương về đoàn kết, thống nhất. “Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững
chắc để xây dựng đoàn kết trong hệ thống chính trị, đại đoàn kết toàn dân tộc
và đoàn kết quốc tế”
Kế thừa và vận dụng sáng tạo bài học về phát huy
sức mạnh đại đoàn kết là “chìa khóa” quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, vững bước
tiến lên thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công băng, văn minh”./.